Đình làng An Hải nằm ở giữa xóm Trung Yên và Trung Hoà, xã An Hải, đình được xây dựng vào năm Minh Mạng nguyên niên 1820, do 7 tộc họ tiền hiền khai phá làng An Hải và dân làng cùng góp công của để tạo dựng. Đây là công trình kiến trúc cổ đặc sắc mang tính nghệ thuật chạm khắc hết sức có giá trị, phục vụ cho sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng tâm linh của nhân dân làng An Hải .
Đình làng An Hải là một trong rất ít những công trình kiến trúc cổ có niên đại xây dựng sớm còn sót lại của tỉnh Quảng Ngãi. Trong nội thất của Đình làng thờ Tam hoàng ngũ đế (Tam phủ), Ngũ vị tiên nương (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), Tiền hiền, hậu hiền; Tiền vãn, hậu vãn và thờ cô hồn.
Đình làng An Hải mặt chính diện quay về hướng Đông nam, tổng thể kiến trúc ngôi đình được xây dựng theo hình chữ Tam, gồm tiền đường, chánh điện và hậu cung mà dân gian quen gọi là đình hạ, đình trung và đình thượng. Đình làng An Hải đã trải qua 6 lần trùng tu (năm 1926, 1938, 1943, 1974, 2001, 2007). Lần trùng tu vào năm 1943 là lớn nhất, đã trùng tu và tôn tạo hoành tráng qui mô đình trung và đình hạ, đem lại cho ngôi đình làng có dáng vẻ bề thế như hiện nay.
Đình hạ (tiền đường):
Gồm 18 cột chia làm 3 gian 2 chái. Cấu kết bộ khung gỗ của nhà tiền đường gồm 4 vì kèo trụ chống cánh dơi, các kèo xuôi qua các dầu cột đỡ hệ thống đòn tay mái và thượng lương. .
Mặt trính đỡ trụ chồng, đế và trụ chồng tạo tác theo mô típ hình “chày cối” đầu trên choãi cánh dơi. Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, cánh dơi nhằm đỡ 2 kéo mái ở hai bên, đồng thời giúp cho đầu trụ chồng không đụng vào ở đỉnh kèo (mặt dưới của thượng lương) để tránh sự xui rủi. Bề mặt của đầu kèo và đuôi kèo được trang trí bằng các đường gờ chồng xếp và các mô típ dây leo thực vật tạo nên vẻ đẹp riêng và sự nhẹ nhàng của tổng thể công trình. Các kèo mái hiên nối tiếp với kèo giữa, xuyên qua đầu cột vách và gác qua đầu cột hiên nhằm đỡ phần mái hiên. Bề mặt của đầu kèo hiên cũng được trang trí mô típ dây leo hết sức công phu, tỉ mỉ.
Hàng cột hiên ở mặt tiền của đình hạ được xây dựng bằng gạch, gồm có 6 cột, mô típ xây dựng các cột giống nhau theo cặp đối xứng: hai cột đối xứng tiếp theo cũng xây bằng gạch, trụ tròn có đắp nổi 2 câu đối. Hai cột ở hai đầu hiên chái, kiểu dáng trụ vuông, phần đế cột đặt trên lưng hai con nghê quay đầu vào nhau. Mô thức đôi Nghê đỡ trụ đình chầu nhau là kiểu mô thức ít thấy xuất hiện trong kiến trúc đình, chùa Việt Nam. Đôi nghê được tạo dáng với các mảng khối sinh động. Thân nghê ghép sành sứ, phần đầu nghê mắt, mũi và răng đều lộ, tai vểnh, bờm tóc dựng đứng trông rất dữ tợn.
Phần mái của đình hạ được lợp ngói đất, đỉnh bờ mái trang trí biểu tượng mặt trời (ở giữa) và hai rồng chầu 2 bên theo kiểu “lưỡng long triều nhật”. Hai đầu của đầu hồi nhà tiền đường đắp nổi mặt long phù. Bờ mái của đầu hồi trang trí rồng, phượng kiểu mô típ “long phụng triều qui”. Đầu góc bờ mái trang trí cá chép hóa rồng.
Mặt bằng của đình hạ có chiều ngang là 9,4m, chiều dài là 12,7m, diện tích 119,38m2. Tòan bộ hệ thống cửa đình hạ là cửa bàn khoa. Tại phần trên của đỉnh cửa được trang trí 6 mắt cửa. Mắt cửa có 2 tác dụng là phần bên trong nhà là chốt tra, phía bên ngoài được trang trí theo mô típ hoa cúc. Trang trí mắt cửa ở đây thể hiện quan niệm tín ngưỡng về việc xua tan âm khí, trừ tà, cầu mong sự bình yên trong cộng đồng. Trong nội thất của nhà tiền đường đặt các ban thờ thập loại cô hồn và là nơi đặt long đình dùng rước thần trong các dịp tế tễ và bức hoành phi chữ Hán “An Hải đình”. Ngoài ra tại đình hạ còn có nhiều câu đối của tiền nhơn để lại, trong đó có câu đối thể hiện khác vọng đỗ đạt trong thi cử của con em trên đảo “Lý Sơn khai bút mạch/An Hải hội tài nguyên”
Đình trung (chánh điện):
Đình trung hay còn gọi là chánh điện. Mặt bằng của đình trung gồm có 16 cột làm thành 4 hàng: 2 hàng cột lớn ở giữa để đỡ bộ vì kèo cửa khung nhà, hai hàng cột phụ ở hai bên mái có chức năng là cột hiên.
Kết cấu kiến trúc của đình trung chia thành một gian hai chái. Khung gỗ gồm ba bộ vì kèo với kiểu trụ chồng “chày cối đầu choãi cánh dơi”. Cánh dơi và đáy trụ chồng được tạo dáng đẹp, cân đối, nhẹ nhàng. Các liên kết trính, xiên (hoành), kèo với đầu cột chính đều được người thợ thực hiện theo phương pháp xuyên chốt mộng, tạo thành bộ khung nhà hết sức chắc chắn. Tại hai đầu hồi của đình trung, hai bên có hai kỳ lân chầu, tượng trưng cho sự vững bền. Tại phần đỉnh bờ mái được trang trí theo mô típ “lưỡng long triều nhật”. Tại 2 đầu hồi của mái đình trung đắp nổi hình “hổ phù”.
Nội thất đình trung đặt các ban thờ: Tam hoàng ngũ đế, tiền hiền, hậu hiền và tiền vãn, hậu vãn.
Đình thượng (hậu cung):
Đình thượng tức là nhà hậu cung liên kết với đình trung bằng một máng xối. Về kiến trúc thì đình thượng không còn kiến trúc gỗ mà được xây dựng hoàn toàn bằng hợp chất vôi vữa trộn với cát. Mái của đình thượng có kiến trúc theo mô típ cắt mái chồng cổ diêm. Mái trên và mái dưới được lợp ngói âm dương. Phần cổ diêm được chia làm 4 mặt, mỗi mặt được trang trí đắp nổi theo nhiều đề tài như: mai điểu, hoa, … Đỉnh bờ mái của đình thượng được trang trí lưỡng long chầu vào bình hồ lô; bốn góc mái trên trang trí chim phượng, 4 góc mái dưới trang trí rồng đắp nổi.
Trong khu vực Đình An Hải hiện nay còn có nhiều di tích tín ngưỡng có giá trị văn hóa và ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của nhân dân trong làng như: nghĩa tự, nhà thờ tiền hiền, miếu Thành Hoàng và miếu Thổ Thần.
Đình làng An Hải là di tích kiến trúc tín ngưỡng tiêu biểu nhất trong hệ thống kiến trúc tín ngưỡng trên đảo Lý Sơn. Nghệ thuật trang trí của đình làng An Hải thể hiện quan niệm về sự quân bình âm dương, mong muốn về sự trường tồn vĩnh cửu. Chúng ta sẽ bắt gặp khá phổ biển các mô típ trang trí “lưỡng long triều nhật”, “long phụng triều qui”, “ngũ phúc” … tại đình làng An Hải tại các lăng miếu trên đảo Lý Sơn, qua đó cho thấy giá trị và ảnh hưởng của nghệ thuật kiến trúc và trang trí của đình làng An Hải đối với các di tích tín ngưỡng trên đảo Lý Sơn. Đặc biệt mô típ tượng đôi Nghê gắn với cột đình chầu vào nhau theo thế âm dương là mô thức ít thấy trong các kiến trúc của đình, chùa Việt Nam. Di tích đình An Hải được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích Kiến trúc nghệ thuật Quốc gia, tại Quyết định số 985 – QĐ/VH ngày 7/5/1997.
Hằng năm tại đình làng An Hải nhân dân tổ chức nhiều sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội mang đậm nét văn hóa truyền thống của cư dân nông nghiệp như: lễ động thổ, Hội dồi bòng, đô vật, lễ tế tiền hiền, lễ hội đua thuyền tứ linh đầu năm, lễ khao lề thế lính Hoàng Sa… phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân và giữ gìn nét nét văn hóa của một làng quê hải đảo giàu bản sắc.